Đồ sứ “tân” ký kiểu – Bleu de Hue: Cẩn trọng khi sưu tầm cổ vật
Cuối cùng tôi cũng đến Cảnh Đức Trấn, địa danh thân thuộc khi tôi bắt đầu tìm hiểu một loại hình cổ vật đặc biệt, mà người ta vẫn quen gọi là đồ sứ men lam Huế hay đồ sứ ký kiểu. Đó là những món đồ sứ làm theo các yêu cầu về kiểu dáng, màu sắc, hoa văn trang trí, thơ văn minh hoạ và hiệu đề, do các sứ bộ và thương nhân từ Việt Nam sang Trung Hoa đặt làm.
Việc ký kiểu đồ sứ được khởi xướng bởi vương triều Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài từ thế kỷ XVII, được tiếp nối bởi các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, qua triều Tây Sơn và trở nên thịnh hành dưới triều Nguyễn. Trong 13 đời vua của nhà Nguyễn, chỉ có 5 đời vua có ký kiểu đồ sứ là: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và Khải Định. Trước khi đi ký kiểu đồ sứ, các hoạ sĩ vâng theo thánh ý của vua và nhu cầu của triều đình để thực hiện các bản vẽ mẫu về kiểu dáng, hoạ tiết và thơ văn trên giấy. Sau đó, các bản vẽ này được trình lên để nhà vua xem xét và phê duyệt trước khi giao cho sứ bộ mang sang Trung Quốc đặt làm đồ sứ. Chuyến đi ký kiểu đồ sứ cuối cùng dưới thời Nguyễn là vào năm 1925, nhưng các sứ thần chỉ đi đến Quảng Đông đặt làm các món đồ sứ mang hiệu đề Khải Định Ất Sửu.
Sau hai năm khảo sát, xác định chủng loại, số lượng, kiểu thức của những món đồ sứ, hoạ sĩ còn đo vẽ tất cả các hoạ tiết trang trí trước khi đặt làm hơn 500 món đồ sứ, trong đó có gần 100 chiếc thống lớn. Vậy mà, ông Hào Hải Thịnh, chủ một lò sứ ở Cảnh Đức Trấn, nơi chúng tôi đặt quan hệ để ký kiểu đồ sứ, vẫn đích thân đến Huế để hướng dẫn các hoạ sĩ trong cách thức sao chép các hoa văn trên đồ sứ cổ sang giấy lụa để giúp cho việc phục chế đồ sứ ký kiểu được chân xác hơn.
Cảnh Đức Trấn đúng như những gì tôi đã hình dung qua các trang biên dịch của cố học giả Vương Hồng Sển trong cuốn Cảnh Đức Trấn đào lục: khắp nơi đều có sự hiện diện của gốm sứ, như lời của ông chủ lò gốm Hải Thanh khi đón chúng tôi ở bến xe Cảnh Đức Trấn: “Xứ này, trên là trời, dưới là đồ sứ”.
Sáng hôm sau, Hào Hải Thịnh đưa chúng tôi ra ngoại ô để thăm Trấn Diêu, vốn là quan xưởng của trấn Cảnh Đức, chuyên làm đồ sứ cao cấp phục vụ cho triều đình và hoàng gia các triều: Nguyên, Minh và Thanh, được thành lập vào cuối thời Tống. Gần 10 thế kỷ trôi qua, Trấn Diêu trải bao cơn thăng trầm và đã trở thành di tích. Năm 1990, chính quyền thành phố đã cho mời chủ nhân hai lò sứ danh tiếng nhất trấn vào lập xưởng chế tác đồ sứ ngay trong khuôn viên Trấn Diêu cũ, vừa để giới thiệu kỹ nghệ gốm sứ truyền thống của Cảnh Đức Trấn, vừa tạo ra sản phẩm phỏng cổ (đồ sứ làm theo kiểu mẫu đồ sứ cổ) làm quà lưu niệm bán cho du khách. Lò của Lỗ Quốc Siêu chuyên về dòng đồ tam thái, ngũ thái, đấu thái (sứ màu) toạ lạc ở phía tây. Lò của Hào Hải Thịnh chuyên về dòng đồ thanh hoạ (sứ trắng vẽ lam) toạ lạc ở phía đông. Xuất thân từ một gia đình 5 đời chuyên cung cấp men màu cho phần lớn các lò gốm sứ trong trấn, Hào Hải Thịnh chuyên tâm nghiên cứu và chế tạo men lam Hồi (oxide cobalt) và trở thành một chuyên gia hàng đầu về dòng đồ thanh hoạ ở Cảnh Đức Trấn.
Khi chúng tôi đến lò của Hào Hải Thịnh, có khoảng 20 thợ gốm đang làm việc, ở nhiều công đoạn khác nhau: nhào trộn cao lanh trong bể ngâm; tạo cốt; trang trí hoạ tiết; vào màu; tả tự (viết chữ), nung đốt sản phẩm… Ông Hào giải thích: “Công việc ở đây rất chuyên biệt. Có người chuyên làm cốt, có người chuyên vẽ rồng, có người chuyên vẽ hoa thụ, phong cảnh, người khác chuyên trách việc nung đốt”.
Sau khi nhận được các thông số về kích thước và hình dáng sản phẩm từ Việt Nam, thợ trong lò bắt tay làm đất và tạo cốt trước, với tỷ lệ khoảng 120% so với thành phẩm, để sau khi nung sản phẩm co rút lại là vừa. Các hoạ tiết trang trí can trên giấy nến, sẽ được copy với tỷ lệ 120%, đồ lại bằng mực đỏ trên giấy lụa rồi đem in lên cốt đất còn ướt để lấy mẫu. Sau đó hoạ sĩ của lò mới vẽ lại bằng màu lam, đóng dấu hiệu đề, phủ men trong, rồi mới đem nung.
Trong những ngày làm việc ở lò sứ của Hào Hải Thịnh, tranh thủ những lúc rảnh rỗi, chúng tôi đi thăm khu lò cổ của hai triều Minh, Thanh. Trấn Diêu xưa, nay đã trở thành một khu bảo tàng sống, giới thiệu lịch sử hình thành và phát triển nghề gốm ở Cảnh Đức Trấn. Tất cả mọi thứ dường như y nguyên, chỉ khác ở chỗ thay vì nung bằng củi sài như trước thì người ta nung bằng lò ga mà thôi. Tuy nhiên, người ta vẫn bày nhiều đống củi sài trước khu lò cũ, cùng nhiều dụng cụ làm gốm sứ xưa và các mô hình diễn giải cho du khách về kỹ nghệ gốm sứ truyền thống của Cảnh Đức Trấn.
Một ngày trước khi chúng tôi về nước, Hào Hải Thịnh đưa chúng tôi đi thăm trung tâm mua bán đồ sứ của Cảnh Đức Trấn. Đó là một khu vừa phố vừa lò, nằm trên bãi đất rộng ven sông Lệ Giang và là nơi mua bán đồ sứ nhộn nhịp nhất Cảnh Đức Trấn. Đồ sứ bày la liệt, từ trong chân lò ra đến cửa hiệu, tràn cả hè phố và ngập kín các bãi đất trống sát chân cầu. Có rất nhiều lò chuyên làm đồ gốm sứ phỏng cổ, từ đồ đời Hán đến đồ Trung Hoa dân quốc, họ đều làm tất. Khách hàng chỉ cần đưa yêu cầu kèm các thông tin chi tiết của món đồ mẫu rồi về. Tuỳ theo kích thước và tính chất của món đồ đặt làm, hai hoặc ba tháng sau, khách hàng sẽ nhận được món đồ như ý muốn.
Có rất nhiều người bày bán những mảnh gốm sứ vỡ trên những tấm ni lông trải ở vệ đường. Ông Hào giải thích với tôi: “Đó là những tiêu bản gốm cổ do người dân đào được ở các phế tích lò xưa trên địa bàn Cảnh Đức Trấn. Người ta mua những mảnh vỡ này về để phân tích thành phần men màu, kỹ thuật nung, rồi bắt chước mà làm các đồ sứ phỏng cổ”. Tôi sục sạo trong nhiều đống mảnh sứ đang bày bán, tìm thấy nhiều mảnh có hiệu đề: Vạn Lịch, Tuyên Đức, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long… nhưng không hề thấy mảnh nào mang hiệu đề của các vua Việt Nam.
Giữa tháng 11.2005, lô đồ sứ tân ký kiểu từ Cảnh Đức Trấn về đến Hữu Nghị Quan. Hào Hải Thịnh xuất hiện bên kia cửa khẩu, tươi cười chào chúng tôi. Thủ tục thông quan được tiến hành nhanh chóng. 500 món đồ sứ ký kiểu vượt biên giới về đến Huế an toàn, kết thúc tân hành trình ký kiểu đồ sứ.
Nguồn: Báo Tuổi trẻ điện tử
MỤC LUC – SƯU TẦM GỐM SỨ TRUNG HOA – KIẾN THỨC
Bình luận về bài viết này