Bài 4: Chuyện bên lề Kim Tự Tháp Ai Cập
Biên Khảo : Đức Chính
Kim Tự Tháp Ai Cập vừa kỳ vĩ vừa huyền bí, nên chẳng lạ gì khi xung quanh nó nhiều chuyện bên lề. Những câu chuyện này vừa minh họa thêm nét tinh hoa của nền văn minh Ai Cập Cổ đại, vừa làm thỏa mãn lòng hiếu kỳ của con người.
Chúng ta sẽ lần lượt nhìn qua từ câu chuyện hết sức khoa học đến câu chuyện mang tính huyền bí hoang đường.
1.- Khám phá chữ viết Ai Cập cổ
Rõ ràng nhiều bí mật của Kim Tự Tháp sẽ không có lời giải đáp nếu không giải mã được ngôn ngữ chạm khắc trên vách, trong vách và trên các bia ký khai quật được. Tuy vậy, đến nay tuy đã giải mã được khá hoàn hảo nhưng bí ẩn Kim Tự Tháp vẫn còn bao trùm. Hiểu ngôn ngữ Ai Cập cổ chỉ mới là một trong nhiều công cụ phục vụ khám phá bí ẩn quanh nó mà thôi. Trước hết chúng ta bắt đầu từ biến cố ngẫu nhiên đến công trình giải mã nó và cuối cùng là khái niệm chữ Ai Cập cổ.
a.- Bia đá Rosetta
Tuy nhiên chữ cổ Ai Cập quả là bí hiểm. Thuở ban đầu không ai hiểu nổi những bức chạm khắc ngoằn ngoèo xen kẻ các hình chạm chân phương trên vách Kim Tự Tháp cả. Thậm chí có người còn cho đó là hình vẽ mô tả cuộc sống thời đó chứ không phải là chữ. Thế rồi tình cờ một tia sáng giải mã đầu tiên lóe lên. Thú vị nó lại xuất phát từ một tấm bia đá mang tên Rosetta. Bia đá này được tìm thấy ở khu di chỉ Sais thuộc vùng Rosetta vào tháng 7 năm 1799. Nó được Bouchard phát hiện không phải trong cuộc khai quật, mà ở pháo đài Julien theo cách gọi của quân Pháp thời bấy giờ. Lúc ấy nó được dùng làm đồ dằn khi tàu thuyền cặp bến cảng này.
Một lần tình cờ Bouchard nhìn thấy bia đá này, nhưng điều làm ông sửng sốt là trên bia đá đó có khắc loại chữ cổ Ai Cập xem lẫn chữ Hy Lạp cổ. Dưới ánh mắt nhà khoa học, một ý niệm nảy lên: “Có hai loại chữ tức là có khả năng so sánh để giải mã chữ cổ Ai Cập.” Sau đó, theo Hiệp ước Alexandria công của người khám phá bị phủ nhận, nó trở thành tài sản của nước Anh và được đưa về Viện Bảo Tàng Luân Đôn, mang mã số EA 24 (khu cổ vật Ai Cập). Tuy nhiên, nó được in rập thành nhiều bản, mang tên văn bản Akerblad và đã trao đến tay rất nhiều nhà nghiên cứu.
Bia đá Rosetta sau khi được giải mã mới biết đó là bản khắc một “sắc luật”, gọi là sắc luật Memphis. Khi vua Ptolemy V[1] đăng quang, ông cho dựng bia sắc luật này tuyên cáo dưới sự trị vì của ông toàn dân phải “tôn thờ thần linh”. Ngày tháng ghi trên bia đó là ngày “4 tháng Xandicus” theo lịch của người Macedonian, tức ngày “18 tháng Meshir” theo lịch Ai Cập; phiên ra theo lịch ngày nay là ngày 27 tháng 3 năm 196 trước Công Nguyên[2]. Trong bia có thuật lại trong 9 năm cầm quyền của vua, nước sông Nil dâng lũ lên rất lớn, mùa màng bị hư hại nhiều. Vì thế, các tu sĩ ở Memphis (vì thế có tên này) cầu xin vua tổ chức cúng tế các vị thần Ai Cập để họ phù hộ. Vua nghe theo, ban sắc luật này và lệnh cho dựng bản sao ở các đền miếu; trong đó chạm “chữ của thần linh” (tức chữ cổ Ai Cập) và “chữ của thường tục” (tức chữ Hy Lạp) đang được triều đình dùng.
b.- Giải mã chữ Ai Cập cổ đại
Người đầu tiên lao vào việc giải mã này là bá tước người Pháp Antoine Isaac Sylvestre de Sacy. Thất bại, nó được chuyển qua tay nhà nghiên cứu Thụy Điển Johan David nhưng không đi đến thành tựu gì, chỉ phỏng đoán chữ cổ Ai Cập cấu tạo bởi các mẫu chữ cái. Đến năm 1814, nhà bác gọc người Anh tên Thomas Young đi vào nghiên cứu lại ra kết luận phản bác Johan David: chữ Ai Cập không là chữ ghép bởi các chữ cái, nó là thứ chữ tượng hình. Cùng nhiều học giả khác theo đuổi, có người làm việc độc lập có người cộng tác với nhau, công cuộc giải mã không hoàn toàn thành tựu: các bia ký vẫn chưa đọc được và giải thích thỏa đáng.
Phải đến nhà ngôn ngữ học thiên tài trẻ tuổi người Pháp, Jean-France Champollion (học trò của Sylvestre de Sacy), bức màn bí mật mới được vén lên tương đối sau 14 năm nghiên cứu. Champillion là một nhà cổ ngôn ngữ học uyên bác, từ thời thiếu niên ông đã am tường chữ hữ Copic (thứ chữ Á Rập cổ)[3]; Ai Cập mới, và chữ cổ Do Thái (hebreux); sau này nghề nghiệp còn dẫn ông đến ngôn ngữ Syria, Chaldae, Hán, Phạn, Zend, Pahlavi, Parsee, … và một số thứ tiếng khác. Vốn liếng này hỗ trợ ông khá nhiều trong công cuộc giải mã chữ Ai Cập Cổ vì một số tính chất chung trong cấu tạo ngôn ngữ của những vùng địa lý tương đối không xa nhau lắm này. Kiến thức về các cấu trúc ngôn ngữ khác nhau cũng giúp ông lần mò giải đáp những nghi hoặc về chữ cổ Ai Cập. Đầu tiên, Jean-François Champollion, đã chứng minh được từ “Kleopatra” (tên nữ hoàng clê-ô-pát) viết bằng chữ cổ Ai Cập như thế nào. Sau đó vận dụng kiến thức về ngôn ngữ Copic ông đã phỏng định một số biểu tượng trong chữ cổ Ai cập có thể phát âm giống như trong chữ Copic.
Cũng như Thomas Young, ông kết luận chữ cổ Ai Cập là một thứ chữ tượng hình, nhưng có điểm khác không hoàn toàn là thứ chữ tượng hình: đó là thứ chữ vừa tượng hình vừa biểu ý. Một chữ tượng hình ngoài nghĩa thông thường nó cần biểu hiện, còn mang một ý nghĩa trừu tượng theo quan niệm xã hội thời đó về đối tượng đượng tượng hình. Nhiều ý niệm trừu tượng khác được thể hiện bằng hai hay nhiều chữ tượng hình ghép lại. Tính cách biểu ý như thế dĩ nhiên không có quy tắc cụ thể, nó thay đổi và có sự khác biệt vào từng vương triều dù ít nhiều vẫn có nét chung. Chính vì vậy không thể hoàn toàn giải mã toàn bộ cùng một lúc các từ cổ của chữ Ai Cập, và công viêc giải mã đến nay vẫn còn tiếp tục thực hiện.
Ngày nay, các công trình nghiên cứu của những người kế tục còn cho thấy thông qua chữ Ả Rập (có nguồn gốc từ chữ Copic) đã ảnh hưởng và tồn tại trong ngôn ngữ nền văn minh phương tây. Ví dụ từ “Perilune” (tiếng Pháp: périlune), có nghĩa là điểm trên quỹ đạo xoay quanh Mặt trăng và nằm gần Mặt trăng nhất (điểm cận nguyệt); từ này gốc tiếng Á rập Pirâmâh, gồm pirâ- (nằm gần bên) + mâh (Mặt trăng). Nền thiên văn học Á Rập chẳng qua là phiên bản từ thiên văn học Ả Rập cổ đại, hai thành tố từ trên được trại ra từ tiếng Copic, hay nói khác đi là từ tiếng Ai Cập cổ đại biến thể. Rất nhiều từ khoa học của phương Tây có nguồn gốc Á Rập, truy nguyên sẽ thấy có cội nguồn từ tiếng Ai Cập cổ đại
Chính nhờ sớm thừa kế nền văn minh Ai Cập cổ đại (người La Mã không thụ lãnh được nhiều để mang về Phương Tây) mà nền khoa học Hồi Giáo á Rập có một thời sáng chói, vượt xa nền văn minh Công giáo Phương Tây. Đến khi có sự tiếp cận thư viện Alexandria sau những cuộc chiến Thập Tự Chinh, Phương Tây mới biết đến những kiến thức khoa học đã giúp dân Á Rập hùng mạnh và bắt chước theo.
Công trình của ông được phác thảo lần đầu tiên trong cuốn Précis du Système Hiéroglytique[1] (tạm dịch: Khái Luận Hệ Chữ Cổ Hy Lạp). Sau đó ông trình bày cụ thể hơn trong bản thảo cuốn Grammaire (Ngữ Pháp) khoảng vào năm 1836-1841và Dictionnaire (Từ Điển – 1841-1844) chuyên về loại chữ này. Các tác phẩm sau chỉ được xuất bản khi ông đã qua đời.
c.- Chữ Ai Cập cổ đại
Chữ cổ Ai Cập có cấu tạo bao gồm nhiều hình ảnh và biểu tượng, được dùng ròng rã gần 3500 năm (từ năm 3300 trước Công nguyên đến hết thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên). Ngoài những bia đá và bức chạm trên vách, quách và quan tài trong Kim Tự Tháp mang tính chất tín ngưỡng, thứ chữ cổ này còn được dùng trong các văn bản chính thức của các vương triều. Bản văn chữ cổ Ai cập hiện được coi là có niên đại cuối cùng được xác định vào năm 394 sau Công nguyên.
[1] Nhiều tác giả dịch Hiéroglytique là “chữ tượng hình”, cách dịch này không bao hàm hết ý nghĩa của vấn đề vì thứ chữ này không đơn thuần là hình vẽ mô tả một nghĩa muốn trình bày. Tôi tạm dùng một cách khiên cưỡng “chữ Ai Cập cổ”, mong bạn đọc thông cảm.
Trong chữ cổ Ai Cập, một số biểu tượng mang nghĩa độc lập, bên cạnh có những biểu tượng dùng để phụ hội nghĩa. Ngoài ra, một số từ Ai Cập cổ chỉ có công dụng để phát âm giống như kiểu bộ mẫu tự La Mã. Thêm nữa, một số từ lại mang rất nhiều nghĩa như từ “cái chân” còn có nghĩa là “đi”, “chạy”, “lui tới”, … Ngữ nghĩa của chữ Ai Cập cổ mang tính biểu ý như thế rất nhiều, thậm chí còn biểu ý theo tâm lý xã hội riêng của thời đó: ví dụ, người Ai Cập cổ đại tin rằng “con ngỗng mái có lòng thương con cao nhất trong số các loài vật”, nên từ “ngỗng mái” biểu ý cho “tình mẫu tử”. Lối biểu ý[1] này khá phổ biến trong Hán ngữ, nên sự hiểu biết ngôn ngữ Trung Hoa góp phần không nhỏ trong việc giải mã tiếng Ai Cập cổ đại. Đặc biệt tên các vị pharaoh và tên các vị thần thường nằm trong nột vòng khuyên, gọi là “vòng tên”. Cũng chính vì tính phức tạp đó, cho đến tận ngày nay tuy đã giải mã được khá nhiều, nhưng vẫn còn không ít từ chưa thể vượt qua.
Bộ mẫu tự phát âm tiếng Ai cập cổ
Biểu tượng |
Ý nghĩa |
Âm theo tiếng Anh |
Kên kên | Âm A ngắn, ví dụ chữ “cat” | |
Cánh tay | Âm A dài, ví dụ chữ “table” | |
Chân | Âm B nặng, ví dụ chữ “big” | |
Cái giõ | Âm C (K) nặng, ví dụ chữ “call” | |
Sợi dây | Âm CH, ví dụ chữ “children” | |
Bàn tay | Âm D nặng, ví dụ chữ “dog” | |
Hai lá sậy | Âm E dài, ví dụ chữ “lead” | |
Kên kên | Âm E ngắn, ví dụ chữ “met” | |
Rắn lục sừng | Âm F, ví dụ chữ “flower” | |
Giá lọ | Âm G nặng, ví dụ chữ “gap” | |
Rắn hổ | Âm G nhẹ, ví dụ chữ “generous” | |
Chỗ trú, Dây | Âm H, ví dụ chữ “he, who” | |
Lá sậy | Âm I ngắn & dài, ví dụ chữ “him, I’m” | |
Rắn hổ | Âm J, ví dụ chữ “jelly” | |
Giõ, Sườn đồi | Âm C hay K nặng, ví dụ chữ “kind, Christmas, lack” | |
Miệng | Âm L, ví dụ chữ “lisp, linger” | |
Chim cú | Âm M, ví dụ chữ “milk, dumb” | |
Nước | Âm N, ví dụ chữ “none” | |
Cút con | Âm O dài, ví dụ chữ “lose, moon” | |
Kên kên | Âm O ngắn, ví dụ chữ “brought, got” | |
Dụng cụ | Âm P, ví dụ chữ “pretty” | |
Rắn lục sừng | Âm PH, ví dụ chữ “pharaoh” | |
+ | Giõ + Cút | Âm Q, ví dụ chữ “queen” |
Miệng | Âm R, ví dụ chữ “red” | |
Vải gấp | Âm S, (C nhẹ), ví dụ chữ “silly, peace” | |
Hồ nước | Âm SH, ví dụ chữ “shilling” | |
Ổ bánh mì | Âm T, ví dụ chữ “talk” | |
Bụng bò | Âm TH nhẹ, ví dụ chữ “moth” | |
(chưa biết) | Âm TH nặng, ví dụ chữ “there” | |
Cút con | Âm U ngắn, ví dụ chữ “lull” | |
+ | Sây + Cút | Âm U dài, ví dụ chữ “rule” |
Rắn lục sừng | Âm V, ví dụ chữ “villain” | |
Cút con | Âm W, ví dụ chữ “will, where, when” | |
+ | Giõ + Vải | Âm X, ví dụ chữ “fox” |
Lá sậy | Âm Y ngắn, ví dụ chữ “yes” | |
Hai lá sậy | Âm Y dài, ví dụ chữ “tarry” | |
Then cửa | Âm Z mạnh, ví dụ chữ “xylophone, zany” |
Cú pháp của chữ Ai Cập cổ lại viết theo ba kiểu: một cách viết từ trên xuống dưới, một cách viết từ phải qua trái và một cách từ trái qua phải. Vậy làm sao biết được một văn bản viết theo cú pháp dọc hay ngang; nhất là khi nào viết từ phải qua trái và khi nào viết từ trái qua phải?
Có một quy tắc mà ngay người không biết chữ Ai Cập cổ vẫn xác định được chỗ bắt đầu và nơi kết thúc một câu, dĩ nhiên không thể hiểu được câu đó nói gì.
Nguyên tắc đó là ở mỗi đầu câu đều bắt đầu một hình vẽ. Ví dụ trên một bảng văn có hình người đàn ông ngồi hướng mặt về bên phải, câu đó đọc từ trái qua phải. Hai trường hợp kia cũng tương tự.
Chính sự phức tạp này mà nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ cổ chào thua. Nhưng dù sao cũng đã giải mã được khá nhiều, qua đó tên các vị pharaoh chủ nhân các Kim Tự Tháp được xác định. Cùng chính vì đọc được chử cổ Ai Cập mà phát sinh truyền thuyết “Lời nguyền Pharoh” sắp nói tới đây.
(còn tiếp)
[1] Lúc này Ai Cập bị đế quốc La Hy cai trị. Vua Ptolemy V là một người Hy Lạp. Chính vì vậy nó được khắc ba ngôn ngữ để mọi thần dân đều đọc được và cũng chính vì thế mới giải mã được chữ cổ Ai Cập.
[2] Năm đó là năm thứ 9 theo niên hiệu vua này.
[3] Hồi giáo Á rập tiếp thu rất nhiều nền văn minh Ai Cập và Hy Lạp thời cổ đại, trong có ảnh hưởng chữ viết không nhỏ. Do vậy, chữ Copic là một nền tảng quan trọng để giải mã.
[4] Nhiều tác giả dịch Hiéroglytique là “chữ tượng hình”, cách dịch này không bao hàm hết ý nghĩa của vấn đề vì thứ chữ này không đơn thuần là hình vẽ mô tả một nghĩa muốn trình bày. Tôi tạm dùng một cách khiên cưỡng “chữ Ai Cập cổ”, mong bạn đọc thông cảm.
[5] Trong ngôn ngữ học còn dùng từ “tượng ý” để thay cho “biểu ý”, tức hình tượng ra ý.
bài viết ko nói rõ về phần dịch chữ ai cập
bài viết thật sâu sắc. có nhiều điều thú vị mà trước giờ mình chưa đupợc biết đến, thanks tác giả.